Tin tức

Cập nhật: 16:32 GMT - thứ tư, 6 tháng 7, 2011

Quy định pháp luật về vùng đặc quyền kinh tế

12:00 | 18/09/2022

Tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 xảy ra ở vùng biển cách mũi Đại Lãnh thuộc tỉnh Phú Yên 116 hải lý, nghĩa là nằm ngay trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam).

Các vùng biển Việt Nam trên Biển Đông.

“Vùng đặc quyền kinh tế của nước CHXHCNVN tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam” (Tuyên bố của Chính Việt Nam năm 1977).

Theo Công ước 1982: “Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh”.

Theo quy định của Công ước 1982, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hay không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.

Các quốc gia khác muốn nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển phải được sự đồng ý của quốc gia ven biển. Đồng thời, khi hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế các quốc gia khác phải tôn trọng luật pháp của quốc gia ven biển và những quy định của luật pháp quốc tế.

Box: Theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển quốc tế năm 1982 (gọi tắt là Công ước 1982), biển và đại dương được chia thành 3 vùng có chế độ pháp lý khác nhau gồm: Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia (Nội thủy và Lãnh hải); các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); các vùng biển chung của cộng đồng quốc tế.

 


PV


undefined